Ngày nay trong thời hiện đại của chúng ta có thể ít nghe nhắc đến cụm từ cấm quân tuy nhiên nếu như ngược dòng lịch sử trở về quá khứ thì đây là từ ngữ cực kỳ quen thuộc. Cấm quân cũng là quân đội có vai trò nhiệm vụ quan trọng đối với đất nước. Vậy cấm quân là gì? Nhiệm vụ bảo vệ của cấm quân ra sao và nhưng băn khoăn của nhiều độc giả sẽ được giải đáp trong bài viết sau.
Cấm quân là gì?
Trước khi đi tìm hiểu sâu về cấm quân là gì thì bài viết xin phép sẽ đưa ra sơ lược đôi nét để độc giả biết cấm quân ra đời vào thời điểm nào và triều đại nào của Việt Nam.
Năm 1009, khi mà vị vua cuối cùng của triều đại nhà Tiền Lê là Lê Long Đĩnh qua đời, con trai ông vẫn còn nhỏ, Lý Công Uẩn được lực lượng của Đào Cam Mộc cùng với thiền sư Vạn Hạnh tôn làm Hoàng đế, từ đây thì nhà Lý chính thức đã được thành lập. Nhà Lý luôn chú trọng phát triển một cách toàn diện trong đó có mọi mặt về văn hóa, xã hội, mặt giáo dục, quân đội,… Quân đội của nhà Lý bao gồm 2 bộ phận chính là cấm quân và quân địa phương. Cấm quân thời Lý cũng là những thanh niên khỏe mạnh hơn cả trong cả nước được tuyển chọn để làm quân ở triều đình nhiệm vụ là bảo vệ vua và triều đình.
Như vậy hoàn toàn có thể hiểu cấm quân chính là đội quân tinh nhuệ được tuyển chọn ngay từ trong nhân dân, cấm quân hoàng gia là những thanh niên khỏe mạnh cường tráng trong cả nước và cấm quân đã được ra đời từ quân đội thời Lý.
Nhiệm vụ bảo vệ của cấm quân là gì?
Nhiệm vụ chính cần thực hiện của cấm quân là bảo vệ nhà vua và triều đình. Bên cạnh đó thì những nhiệm vụ của cấm quân cũng là một lực lượng nòng cốt trong cuộc chiến tranh chống ngoại xâm, có thể sẽ được điều động đi các lộ để phối hợp tác chiến.Tùy thuộc vào mỗi triều đại khác nhau mà những nhiệm vụ của cấm quân cũng có sự thay đổi.
Trong mỗi thời kỳ khác nhau trong lịch sử của nước ta thì đội ngũ cấm quân triều đình lại được sử dụng một cách khác nhau. Theo Đại Việt sử ký toàn thư, vào thời điểm đầu năm Thuận Thiên thứ 2 của thời vua Lý Thái Tổ (1011), nhà vua đã cho đặt các cánh quân tả hữu túc xa, tức là các cánh quân hầu hai bên xe vua, gồm hai đội là cánh tả và hữu, mỗi đội đều khoảng 500 người. Sang thời Lý Thái Tông, vào thời điểm năm 1051, lại đặt thêm là quân tùy xa long, gồm đối nội và ngoại, sai Tả kiêu vệ tướng quân tên là Trần Nẫm trông coi.
Lý Thái Tổ băng hà vào thời gian tháng 3 năm 1028 thì lại xảy ra sự kiện “loạn tam vương”, ba người con của nhà vua là các vương Đông Chinh, Dực Thánh và vua Vũ Đức dấy binh có ý định cướp ngôi của thái tử Lý Phật Mã. May mà có tướng quân giỏi là Lê Phụng Hiểu chỉ huy các vệ sĩ trong cung thành cùng mở cửa ra đánh, chém chết Vũ Đức vương, đuổi đánh dẹp loạn hai vương Đông Chinh và Dực Thánh. Tuy nhiên, sử sách triều đại lại không ghi rõ các vệ sĩ đã có công dẹp loạn thuộc hàng ngũ các vệ cấm quân nào.
Sau khi lên ngôi, vua Lý Thái Tông đã chính thức cho đặt 10 vệ điện tiền cấm quân, bao gồm các vệ quân Quảng Thánh, Quảng Vũ, Ngự Long, Bổng Nhật, Trừng Hải, mỗi vệ quân đều chia ra tả hữu trực, đi vòng bao quanh để bảo vệ bên trong cấm thành.
“Đại Việt sử ký toàn thư” cũng cho biết, năm 1104, đời Lý Nhân Tông, nhà vua cũng đã cho định lại binh hiệu của quân cấm vệ, nhưng sử sách không ghi rõ các hiệu là gì. Tháng 3 năm 1118, sử sách thời này đã ghi chép triều đình lấy các đại hoàng nam (là các trai tráng trên 20 tuổi) khỏe mạnh sung vào trong làm binh cho các đội Ngọc Giai, Hưng Thánh, Vũ Đô và Ngự Long, tất cả gồm có 350 người. Sang năm 1119, “Toàn thư” cũng đã cho biết vào tháng 10, vua duyệt sáu binh bao gồm tào Vũ Tiệp, Vũ Lâm…, người nào có tố chát mạnh khỏe cho làm hỏa đầu ở các đội quân là Ngọc Giai, Hưng Thánh, Bổng Nhật, Quảng Thành, Vũ Đô, còn các bậc dưới thì sẽ chỉ làm binh ở 4 quân này.
Khi vua Lý Nhân Tông băng hà vào năm 1128, hoàng thái tử là Dương Hoán lên ngôi ngay trước linh cữu. Để đảm bảo an toàn tuyệt đối cho lễ đăng quang, tân vương đã hạ lệnh cho Vũ vệ là Lệ Bá Ngọc truyền bảo quân hầu và các quan văn võ cùng nhau lui ra ngoài cửa Đại Hưng, sai các người canh giữ thành đóng cửa canh phòng cực kỳ cẩn mật, không cho ai ra vào, sai hàng ngũ cấm quân cầm binh khí đứng ở dưới điện Thiên An.
Rồi sau đó mới lệnh cho quân lính mở cửa nách bên hữu, gọi cho các quan vào điện Long Trì, sai Bá Ngọc truyền bảo các vương hầu và các quan văn võ cùng đi vào để tuyên bố Thái tử kế vị. Nhờ có công phò tá vua an toàn lên ngôi, Lê Bá Ngọc từ chức Vũ vệ đã được thăng lên làm chức Thái úy, thăng tước hầu; nội chi hậu quản giáp là Lý Sơn làm Điện tiền chỉ huy sứ, tước ban là Đại Liêu Ban.
Khi Lý Cao Tông mới lên nối ngôi triều đại, Chiêu Linh thái hậu âm mưu lật đổ nhà vua để có thể đưa con mình là hoàng tử Long Xưởng lên ngôi nắm quyền, nhưng nhờ có Tô Hiến Thành đã trực tiếp quản lĩnh quân cấm binh, “nghiêm hiệu lệnh, thưởng phạt công bằng, người khắp trong nước đều quy phục”, nên ngôi vua được giữ vững.
Thời vua cuối cùng tiếp nối của triều Lý là Lý Chiêu Hoàng, chức Điện tiền chỉ huy sứ là chức do Trần Thủ Độ nắm, có quyền coi giữ mọi việc quân sự ở cả trong ngoài thành thị, nhờ đó, ông cũng có đủ khả năng ép nữ hoàng phải nhường ngôi lại cho cháu của mình là Trần Cảnh, bắt đầu triều đại nhà Trần.
Vào thời đại của Trần Thái Tông, năm hiệu Thiên Ứng Chính Bình thứ 10 (1241), sử sách đã chép rằng triều đình nhà Trần “chọn người nào có sức khỏe, am hiểu võ nghệ thì sung làm quân Túc vệ thượng đô”. Năm 1239, vua Trần Thái Tông đã ra lệnh cải tổ lực lượng quân đội cả nước, chia quân ra làm 3 bậc Thượng, Trung và Hạ. Trong đó, cấm quân là quân đội thuộc bậc Thượng, đóng quanh khu vực cấm thành kinh đô Thăng Long và hành cung Thiên Trường.
Theo “Toàn thư”, năm 1245, triều nhà Trần lại sung những người có thể chất khỏe mạnh làm quân các hiệu Tứ Thiên, Tứ Thánh, Tứ Thần; đinh tráng của các lộ Thiên Trường và Long Hưng (đều là những đất căn bản của nhà Trần) sung thêm vào các quân Thiên Thuộc, Thiên Cương, Chương Thánh và quân Củng Thần; đinh tráng lộ Hồng và lộ Khoái sẽ sung vào quân tả hữu Thánh Dực; lộ Trường Yên và lộ Kiến Xương sung vào quân Thánh Dực, Thần Sách. Còn các lộ khác nữa thì sẽ được sung vào cấm quân trong Cấm vệ. Hạng thứ ba thì sẽ được sung vào đoàn đội trạo nhi (hoặc còn được gọi là phong đội).
Thời Lê, lúc Lê Nhân Tông mới bắt đầu lên ngôi, do hạn hán, sâu lúa đã dẫn đến mất mùa, dân chúng thì nghèo, mà số vệ sĩ tăng nhiều, lương thực lại cấp không đủ, nên nhà vua đã ra lệnh chỉ cho tướng quản lĩnh ngự tiền vũ đội cho chia quân ra thành ba phiên thay nhau túc trực để có thể được về nhà viếng thăm cha mẹ. Đồng thời, nhà vua cũng đã cho giảm bớt số tướng hiệu (chỉ huy) ở các đội vệ quân. Như các quân ngự tiền thì mỗi quân trước có 8 viên, nay nhà vua chỉ giữ lại 2 viên. Năm quân Thiết Đột, mỗi quân lúc trước sẽ có 4 viên.
Trong sự biến quan trọng Diên Ninh năm 1459, Lạng Sơn vương Lê Nghi Dân đã đưa toàn quân bắc thang, trèo thành vào cung cấm giết chết vua lúc đó là Lê Nhân Tông và Tuyên Từ hoàng thái hậu, có được sự giúp sức đắc lực của Lê Đắc Ninh là chức Đô chỉ huy giữ cấm binh đương trong phiên trực, do Đắc Ninh đã đem cấm quân giúp kẻ phản nghịch. Đến khi mà các quan đã lật đổ Lê Nghi Dân, đưa Lê Thánh Tông nối tiếp lên ngôi, Lê Đắc Ninh đã bị xử tử. Thời Lê Thánh Tông, quân Cấm vệ đóng ở Kinh đô gồm 2 vệ là Kim Ngô và Cẩm Y, 4 vệ là Hiệu Lực, 4 vệ là Thần Vũ, 6 vệ là Điện Tiền, 4 vệ là Thuần Tượng, 4 vệ Mã Bế (các đội voi, ngựa).
Thời Nguyễn, quân đội trực tiếp bảo vệ vua và cấm thành gọi là Thân binh bao gồm các vệ Cẩm Y, Kim Ngô, Tuyển Phong và quân doanh Vũ Lâm. Cấm binh thời nhà Nguyễn gồm nhiều vệ, nhưng tất cả chủ yếu mang tính chất nghi lễ, phục dịch hay công việc hầu cận.
Cấm quân của từng thời đại
Cấm quân thời Lý
Cấm quân thời Lý còn có một tên gọi khác là “thiên tử binh”, đồng thời các binh lính phục vụ thuộc cấm quân cũng được xăm ba chữ nổi bật là “Thiên Tử Binh” trên trán, đặt dưới sự chỉ huy một cách trực tiếp của các tướng lĩnh dưới quyền chỉ huy của nhà vua. Cấm quân của triều đại Lý lúc này có thể không được thống nhất về tổ chức biên chế, mà cũng sẽ tùy theo từng đời vua sẽ được tổ chức khác nhau.
Cấm quân thời Lý là một lực lượng nòng cốt của quân triều đình, trực tiếp nhiệm vụ bảo vệ Kinh đô trong đó có Hoàng đế và Hoàng tộc; do đó dưới triều Lý và cũng như các triều đại sau, cấm quân luôn được coi trọng, phát triển. Lý Công Uẩn ngay lúc trước khi lên ngôi lập vương triều Lý đã từng là một võ quan uy tín có thế lực nhất của nhà Tiền Lê, giữ chức Điện Tiền chỉ huy sứ, cai quản quân Tả thân vệ. Vì thế, Lý Thái Tổ là người đã kế thừa gần như toàn bộ hệ thống bộ máy tổ chức quân sự cuối thời Tiền Lê.
Ngạch quân thời Đinh (968-979) và quân của thời Tiền Lê (980-1009) gọi chung là Thập đạo quân: Mỗi vệ 10 quân, mỗi quân 10 lữ, mỗi lữ cũng có 10 tốt, mỗi tốt 10 ngũ, mỗi ngũ 10 người. Trong hệ thống lớn đó có một bộ phận lính chuyên nghiệp hơn cả gọi là Thân quân, một loại “gia binh riêng của Hoàng đế” mang tính chất “thân binh” như kiểu “lính trong nhà” của quân đội Dương Đình Nghệ ngày trước.
Số đó cũng là quân được gọi là quân Điện Tiền, gồm khoảng từ lượng 3 đến 5 nghìn người. Năm 990, sứ giả nhà Tống tên là Tống Cảo đã từ Hoa Lư về và thuật lại với vua Tống rằng: “Trong thành thì sẽ không có dân, chỉ có mấy trăm khu nhà để làm trại lính… Số binh sĩ độ khoảng 3 nghìn người, đều thích lên mình ba chữ “Thiên tử quân” ở trán. Lương thì đã phát lúa để làm ra gạo mà ăn. Vũ khí cũng chỉ có cung nỏ, mộc gỗ, giáo, lao bằng tre…”
Theo sách Toàn thư (Đại Việt sử ký toàn thư) vào năm 1028, Lý Thái Tông đã thực hiện “đặt 10 vệ Điện Tiền cấm quân: 1. Quảng Thánh, 2. Quảng Vũ, 3. Ngự Long, 4. Bổng Nhật, 5.Trừng Hải. Mỗi vệ đều được chia làm tả và hữu trực, đi quanh để bảo vệ phía bên trong cấm thành”.
Năm 1054, Lý Thánh Tông đổi tên tất cả các đô quân Khuông Thánh của Thần Vệ thành tên Củng Thánh, Quảng Đức thành Trung Vũ, Quảng Vũ thành tên Chiêu Vũ; đồng thời đặt thêm hai bên tả và hữu Long Dực đô, mỗi đô 100 người. Đến năm 1059, nhà vua lại tiếp tục chia quân làm 8 hiệu: Ngự Long, Vũ Thắng, Long Dực, Thần Điện, Bổng Thánh, Bảo Thắng, Hùng Lược và quân Vạn Tiệp; mỗi hiệu quân cũng đều chia ra bốn bộ tả, hữu, tiền và quân hậu; hợp thành 100 đội, trong đó tất có cả lính ky mã, lính cung nỏ và dụng cụ bắn đá; mỗi người đều thích lên trán 3 chữ “Thiên tử quân” (Sự kiện này trong sách Việt sử tiêu án cũng chép một cách tương tự, còn sách An Nam chí lược thì chép hai hiệu bao gồm quân Bộ Điện và Củng Nhật thay cho Thần Điện và Bổng Thánh).
Sách Lĩnh ngoại đại đáp của sử gia Trung Quốc thời Tống chép về Cấm quân của nhà Lý như sau: “Triều Lý có 8 quân bao gồm Ngự Long quân, Vũ Thắng quân, v.v… đều đã được chia ra làm tả và hữu; mỗi quân có 200 người, đều thích ở giữa ngang trán ba chữ “Thiên Tử quân”2. Sử sách nước ta cho biết: buổi đầu đời Lý, cấm vệ có 10 quân, mỗi quân bao gồm có 200 người.
Dưới đời Lý Thánh Tông (1054-1072) thì số Cấm quân có khoảng 3.200 người. Sử thần Ngô Thì Sĩ đã có nhận xét: “Binh chế ở ngày buổi đầu đời Lý lấy Thân quân làm trọng, cũng gọi là đội Cấm quân. Cấm vệ có 10 quân, mỗi quân có 200 người, đều có cánh tả và hữu; phải túc trực một cách thường xuyên”
Như vậy, thời Lý đã có khoảng vài chục đô quân và cả vệ quân, mỗi vệ có khoảng là 200 người, đóng trong cấm thành để bảo vệ hoàng cung vua. Cấm quân được nhận nhiều ưu đãi cấp lương và bổng lộc, được xăm lên mình và thích ba chữ “Thiên Tử quân” ở trán. Bấy giờ, nhà nước cũng đã có lệnh cấm những nô bộc tư gia không được xăm lên vùng ngực, vào chân để làm giả mạo mô phỏng theo hình dạng của Cấm quân.
Thông thường cấm quân của nhà Lý được chia làm các vệ, mỗi vệ có từ khoảng 200 đến 500 người. Dưới các vệ lần lượt là các đô, hỏa. Mỗi đô sẽ có khoảng 100 người.
Dưới triều vua Lý Thái Tổ (1010 – 1028), lực lượng cấm quân sẽ có khoảng 3000 người, được chia thành cả 6 vệ, mỗi vệ biên chế 500 người.
Dưới triều vua Lý Thái Tông (1028 – 1054), lực lượng cấm quân có khoảng 2000 người, được chia thành 10 vệ, mỗi vệ biên chế 200 người.
Sang triều vua Lý Thánh Tông (1054 – 1072), lực lượng cấm quân có khoảng 3200 người, được chia thành 16 vệ, mỗi vệ biên chế 200 người.
Cấm quân thời Trần
Năm 1239, vua Trần Thái Tông đã ra lệnh cải tổ hệ thống quân đội cả nước, chia quân làm 3 bậc Thượng, Trung và Hạ. Trong đó, cấm quân là đội quân thuộc bậc Thượng, đóng quanh khu vực của kinh đô Thăng Long và cũng như hành cung Thiên Trường (đất tổ nhà Trần) để bảo vệ được cả triều đình và hoàng gia và đóng vai trò như là “xương sống” trong quân đội cả nước.
Cấm vệ quân cũng đã được tuyển chọn kĩ lưỡng từ tráng đinh trên toàn cả nước, phải trải qua sự huấn luyện cay đắng hà khắc nhất và trang bị những binh khí tốt.
Cấm quân thời Trần cũng là đội có binh lực đông đảo nhất trong cả nước, lúc quân đội cực thịnh có thể lên đến 10 vạn, nhằm đảm bảo tối đa sự phục tùng của các địa phương với quân triều đình trung ương, đồng thời đủ sức trấn áp mọi thế lực đang cát cứ, nội loạn trong nước.
Cấm quân của Đại Việt là quân luôn xăm lên trán 3 chữ “Thiên Tử quân”. Chỉ huy chính của cấm quân là Điện tiền chỉ huy sứ thường do người tôn thất giao quyền đảm nhiệm. Cấm quân trên một phương diện hiện đại nhất định có thể xem như là tư binh nuôi riêng của hoàng đế, bởi chỉ huy của họ tuyệt đối cần phải trung thành với vua. Vì thế, mệnh lệnh điều động của toàn thể Binh bộ không có tác dụng với cấm quân.
Cấm quân nhà Nguyễn
Từ năm 1802 – 1883 cấm quân của nhà Nguyễn đóng ở kinh thành Phú Xuân (Huế) được gọi là Vệ binh, có nhiệm vụ chính là quân bảo vệ kinh đô và vua Nguyễn. Hệ thống tổ chức cũng như biên chế cơ bản của Vệ binh. Vệ binh quân nhà Nguyễn có khoảng 40.000 người, được chia ra thành khoảng ba bộ phận gồm Thân binh, Cấm binh và Giản binh.
Năm 1885, sau khi triều nhà Nguyễn lệ thuộc hoàn toàn vào Pháp thì tất cả lực lượng cấm quân tan rã, chỉ còn lại một số nhỏ hơn được gọi là Thân binh với biên chế khoảng 2000 quân để hầu cận cho các vua.
Có rất nhiều câu hỏi xoay quanh vấn đề cấm quân là gì này mà bạn đọc đôi khi sẽ còn thắc mắc chưa được giải đáp rõ ràng. Đội sáng tạo cũng hiểu được những băn khoăn này, chúng tôi sẽ đưa ra nhiều bài viết phân tích về Cấm quân là gì trong tương lai.