Chắc hẳn ai cũng ước được một lần giới thiệu với các bạn bè quốc tế những nét đặc sắc của văn hóa, ẩm thực và phong tục tập quán của tất cả 54 dân tộc nước ta. Sau đây, cùng Thợ chữ 4.0 điểm qua danh sách tên và hình ảnh 54 dân tộc Việt Nam để hiểu rõ hơn về những người anh em máu mủ ruột thịt.
Việt Nam Đa Dạng Với 54 Dân Tộc
Từ xa xưa, 54 dân tộc anh em chung dòng máu Lạc Hồng cùng sinh sống, làm ăn trên đất nước Đại Việt. Tất cả đều đoàn kết một lòng từ đồng bằng cho đến núi non, biển sâu.
54 dân tộc anh em đã cùng nhau trải qua bao nhiêu thăng trầm, từ từ những ngày tháng dựng nước, kháng chiến chống giặc ngoại đến khi giải phóng hoàn toàn đất nước và xây dựng quốc gia ngày càng phồn vinh, thịnh vượng.
Danh sách tên và hình ảnh 54 dân tộc Việt Nam mới nhất 2022
Dân tộc Kinh
Dân số: 82.085.984 người (85% tổng dân số nước ta).
Dân tộc Kinh là dân tộc lớn nhất nước Việt Nam. Người Kinh sử dụng ngôn ngữ chính là Tiếng Việt và có phong tục thờ cúng tổ tiên, ông bà.
Nghề trồng lúa nước được xem là nghề chính của dân tộc này. Người Kinh có một số tín ngưỡng đặc trưng như thờ cúng tổ tiên, thờ Mẫu,.. Đặc biệt họ không giới hạn tín ngưỡng tôn giáo, tức không bắt buộc chỉ theo một tôn giáo.
Cũng tùy nơi sinh sống mà người dân cũng có chịu ảnh hưởng của các dân tộc khác mà mặc những trang phục riêng
Dân tộc Tày
Dân số: 1.845.492 người
Dân tộc lớn thứ hai này sinh sống ở các vùng trung du miền núi phía Bắc (nhiều nhất ở Bản Hồ và Thanh Phú)
Họ sử dụng Tiếng Tày – Thái (hệ Thái – Ka Ðai) như hệ ngôn ngữ chính. Chữ viết của họ khá giống chữ viết của người Việt xưa.
Người dân tộc này lập nghiệp bằng các nghề như trồng lúa nước và cây công nghiệp như chè, hồi, thuốc lá. Người dân tộc Tày tín ngưỡng Đa Thần và thờ cúng tổ tiên.
Trang phục người Tày nhìn bền ngoài khá đơn giản nhưng lại được thêu dệt với tỉ mỉ. Thường thì họ sẽ điểm trang cho trang phục bằng cách đeo trang sức bạc như lắc tay, kiềng, xà tích, khuyên tai.
Dân tộc Thái
Dân số: 1.820.950 người.
Nơi ở: sinh sống chủ yếu ở khu vực Tây Bắc Việt Nam (các tỉnh Sơn La, Lai Châu, Hòa Bình, Nghệ An).
Ngôn ngữ: chung hệ ngôn ngữ với dân tộc Tày
Người dân tộc Thái bao gồm người Thái trắng và Thái đen. Họ là một trong số ít dân tộc ở nước ta có hệ thống chữ viết riêng có nguồn gốc từ miền Nam Trung Quốc.
Ngày nay, người Thái đã bỏ bớt các hủ tục trong hôn nhân. Muốn biết một cô gái người Thái có chồng hay chưa thì dựa vào búi tóc trên đầu vì chỉ có người đã có gia đình mới để.
Dân tộc Mường
Dân số: 1.452.059 người
Nơi sinh sống: phần lớn ở các tỉnh Miền Bắc (đặc biệt là Hòa Bình và một số huyện miền núi Thanh Hoá).
Ngôn ngữ: hệ Nam Á (Việt – Mường)
Người dân tộc Mường có nền văn hóa tương đồng với người Kinh nhưng vài nét phong tục riêng của mình. Điển hình như là thờ phụng tổ tiên, bên cạnh thờ Đa Thần còn có thờ thành hoàng, các vị thần, thờ vua, …
Trang phục truyền thống của người dân tộc Mường đa dạng từ áo xẻ ngực thân ngắn, cạp váy dài được dệt hoa độc đáo, đến các loại trang sức làm từ chuỗi hạt, bạc và vuốt của các loại mãnh thú,..
Dân tộc Khmer
Dân số: 1.319.652 người
Ngôn ngữ: Môn Khơ Me (1 trong 21 dân tộc).
Nơi ở: rải rác từ miền Trung Tây Nguyên, Tây Bắc cho đến một số khu vực Nam Bộ.
Nghề canh tác chính của người Khmer là làm nương rẫy, họ cũng sở hữu nhiều nét văn hóa đa dạng. ..
Hầu hết người Khmer theo đạo Phật mang đậm dấu ấn Bà La Môn. Tại khu vực Nam Bộ có gần 600 ngôi chùa lớn nhỏ được xây dựng cách đây vài thế kỷ trước với lối kiến trúc lạ mắt.
Về trang phục thì ta không thể không đề cập đến những bộ váy xàm pốt của nữ giới hay xà rông cho nam giới.
Dân tộc Hmong (H’mông)
Dân số: 1.393.547 người.
Nơi ở: phần lớn ở các tỉnh vùng cao như Sơn La, Hà Giang, Tuyên Quang, Sơn La, Cao Bằng, Yên Bái, Nghệ An và Lai Châu.
Ngôn ngữ: Mèo – Dao (Mông)
Người Hmong lần đầu tiên xuất hiện chính là ở khu vực Mèo Vạc, Đồng Vân, Hà Giang. Đây được xem như là nguồn cội, quê hương của người Hmong. Ngày nay, họ đã di chuyển ra nhiều tỉnh thành ở phía Bắc nước ta.
Ngoài thờ cúng tổ tiên thì giống như tín ngưỡng của một số dân tộc thiểu số khá, họ còn thờ Đa Thần.
Dân tộc Nùng
Dân số: 1.083.298 người.
Người Nùng mưu sinh bằng cách canh tác các loại lương thực chính như là ngô, lúa trên các sườn đồi. Bên cạnh nghề thủ công mỹ nghệ của họ cũng rất đa dạng về đan lát, rèn, dệt, đồ gốm, nghề mộc,..
Đối với người Nùng, dù có là anh chị em ruột hay họ hàng thì sẽ đều dựa vào độ tuổi để xác định xưng hô. Họ gọi tên của người ông, người ba trong nhà theo tên đứa con đầu, cháu đầu của họ.
Trong các lễ hội, trang phục truyền thống với áo 5 thân, quần ống rộng dài nhuộm màu chàm sẽ được mặc. Tùy thuộc vào nhóm người Nùng khác nhau mà họa tiết trang trí và cách mang khăn sẽ có sự khác biệt.
Dân tộc Dao
Dân số: 891.151 người
Nơi ở: phân bố ở khu vực miền núi phía Bắc.
Người Dao canh tác nương rẫy là chính, chủ yếu trồng ngô, lúa, các loại rau như khoai, bầu, bí,.. Nghề trồng bông dệt vải ở một số bản làng cũng rất phổ biến. Ngoài ra họ còn mạnh về các nghề rèn, thợ bạc.
Dân tộc Dao cũng được chia thành từng nhóm như: Dao Lô Gang, Dao Đỏ, Dao Quần Trắng,.. Mỗi nhóm sống ở một nơi khác nhau và có những phong tục tập quán riêng.
Hệ thống ngôn ngữ, chữ viết và kho tàng thơ ca, mỹ thuật của họcực kỳ đa dạng. Người Dao tín ngưỡng Đa thần nguyên thủy
Người dân tộc Dao có thể dễ dàng nhận biết dựa trên những trang phục áo dài, yếm, váy,.. với tông đỏ là chủ đạo rực rỡ sắc màu và đều được thêu hoa văn.
Dân tộc Hoa
Dân số: 749.466 người
Người dân tộc Hoa thường sinh sống trong các gia đình lớn 4 – 5 đời. Hiện nay thì họ đã dần tách ra thành những hộ gia đình nhỏ nhưng vẫn gần gũi.
Người dân tộc Hoa cũng thờ rất nhiều vị thần, Phật và cũng có tín ngưỡng thờ cúng ông bà tổ tiên.
Dân tộc Gia Rai
Dân số: 513.930 người
Nơi ở: Tây Nguyên
Biểu tượng của cộng đồng và văn hóa: những ngôi nhà Rông.
Người nam Gia Rai sẽ đóng khố, mặc áo đen hở nách với may với các đường dọc 2 sườn. Còn người nữ Gia Rai sẽ mặc những loại áo cánh bó sát thân, tay áo dài và váy chàm viền hoa văn quanh phần gấu tua chỉ màu ở cạp váy
Dân tộc Ê Đê
Dân số: 398.671 người
Nơi ở: những vùng cao nguyên như Đak Lak, Dak Nông
Người Ê Đê sinh sống theo buôn làng và tuân theo chế độ mẫu hệ. Họ canh tác nương rẫy là chính.
Bên cạnh cồng chiêng vốn là nét đặc sắc của nhiều dân tộc vùng Tây Nguyên thì người Ê Đê còn có hình thức văn hóa nghệ thuật độc đáo khác là vừa kể vừa hát (Klei khan).
Dân tộc Ba Na
Dân số: 286.910 người
Nơi ở: gần với núi rừng thiên nhiên
Ngoài canh tác ruộng nước thì người Ba Na còn làm đan lát, dệt, gốm, rèn,. Trong đó, dệt thổ cẩm được dệt bằng tay với họa tiết tinh tế với nhiều gam màu như đỏ, đen, trắng,..
Nét văn hóa dân gian của họ cũng rất phong phú, từ trường ca, truyện cổ, múa dân gian đến nhạc cụ dân tộc độc đáo.
Dân tộc Xơ Đăng
Dân số: 212.277 người
Ngôn ngữ: ngôn ngữ Môn – Khơ me (tiếng Xơ)
Nơi ở: Trường Sơn, Tây Nguyên và khu vực lân cận Quảng Nam, Quảng Ngãi. Họ chủ yếu làm nương rẫy trồng lúa và ngô, sắn, chuối, mía, thuốc lá,.. Người Xơ Đăng cũng tín ngưỡng Đa Thần.
Tùy vào từng nơi sống mà phong tục từng vùng của người Xơ Đăng có nhiều đổi khác.
Dân tộc Sán Chay
Dân số: 201.398 người
Người Sán Chay thường tập trung thành làng làm nương rẫy.
Người Sán Chay có danh sách họ khác nhau và với mỗi họ sẽ có một thần linh nhất định để thờ cúng .
Trang phục của người Sán Chay khá tươn tự với người dân tộc Tày hoặc là người Kinh.
Dân tộc K’Ho (Cờ Ho)
Dân số: 200.800 người
Nơi ở: các vùng núi cao phía Nam Tây Nguyên
Họ tách biệt với các dân tộc khác nên gần như vẫn giữ nguyên được văn hóa riêng của dân tộc mình. Giống với đa số các dân tộc khác, họ cũng tín ngưỡng Đa thần.
Người Cờ Ho chủ yếu canh tác nông nghiệp và lâm thổ sản. Hiện tại người dân tộc Cờ Ho vẫn lưu truyền chế độ mẫu hệ.
Dân tộc Sán Dìu
Dân số: 183.004 người
Ngôn ngữ: Sán Dìu
Tuy là dân tộc thiểu số có nhiều họ khác nhau nhưng người dân tộc Sán Dìu đều yêu thương và đùm bọc lẫn nhau.
Người nam giới Sán Dìu sẽ mặc quần đùi cộc hoặc quần dài tối màu vào những dịp thông thường. Nữ giới sẽ luôn mặc áo trong luôn sáng màu hơn áo ngoài, áo ngoài có 3 vạt dài quá gối và đeo yếm, đội khăn mỏ quạ.
Dân tộc Chăm
Dân số: 178.948 người
Ngôn ngữ: Nam Đào (1 trong 5 dân tộc)
Chữ viết: Phạn Ả Rập nhưng đã có một số thay đổi nhất định.
Nơi ở: Tây Nguyên, vùng duyên hải miền Trung.
Nét văn hóa truyền thống nổi bật nhất của người Chăm là chế độ mẫu hệ. Họ kiếm sống chủ yếu nhờ chăn nuôi, làm gốm và dệt.
Phong tục tập quán của người Chăm mang đậm dấu ấn của Hồi giáo và Bà la môn từ các nghi thức cúng thần linh, cưới xin,thiêu thi,..
Người Chăm cổ xây dựng những ngôi đền gạch nung mang phong cách kiến trúc Ấn Độ độc đáo và các tác phẩm điêu khắc khác.
Dân tộc Hrê
Dân số: 149.460 người
Nơi ở: Nam Trung Bộ và Tây Nguyên.
Ngôn ngữ: nhóm ngôn ngữ của Môn – Khmer.
Người Hrê canh tác lúa nước, chăn nuôi là chính. Ngoài ra họ cũng biết đan lát, dệt thổ cẩm và rèn.
Ngày nay, tuy trang phục nhiều gia đình dân tộc Hrê đã dần giống như người Kinh nhưng họ vẫn giữ phong tục quấn khăn.
Dân tộc Raglai
Dân số: 146.613 người
Nơi ở: tỉnh Ninh Thuận và Khánh Sơn, Khánh Hòa.
Ngôn ngữ: hệ ngôn ngữ chi Maylay – Polynesia của hệ Nam Đảo.
Người Raglai thường sinh sống ở những gò đất cao, bằng phẳng, gần sông ngòi để thuận tiện sinh hoạt cũng như các hoạt động sản xuất khác. Họ chủ yếu canh tác lúa và ngô, khoai, rau củ quả. Nghề làm gốm, đan lát, rèn,.. tuy vẫn có nhưng còn thô sơ, chỉ đủ đảm bảo phục vụ sinh hoạt và sản xuất.
Tương tự một số các dân tộc, người Raglai cũng sống theo chế độ mẫu hệ.
Dân tộc Mnông
Dân số: 127.334 người
Nơi ở: miền Trung Tây Nguyên.
Chữ viết: chưa có, truyền miệng là chủ yếu.
Người Mnông chủ yếu canh tác bằng cách phát quang, đốt nương rẫy và gieo hạt trên đầm lầy. Ngoài làm đan lát, rèn nông cụ, làm gốm thì săn bắn – thuần dưỡng voi rừng của người dân Buôn Đôn cực kỳ nổi tiếng.
Người Mnông thường sinh sống thành các bon hay uôn gồm những nhà có quan hệ huyết thống với nhau và tuân theo chế độ mẫu hệ. Tuy nhiên ở một số nơi thì chế độ này đã dần tan rã.
Dân tộc X’Tiêng
Dân số: 100.752 người
Nơi ở: Đồng Nai, Lâm Đồng và hiện sinh sống xen kẽ với nhiều dân tộc ở các tỉnh phía Nam.
Tùy theo nơi sống mà người X’Tiêng chú trọng làm ruộng nước hoặc làm nương rẫy để canh tác.
Người X’Tiêng có trang phục truyền thống khá đơn giản khi nam đóng khố còn nữ mặc váy. Họ còn có truyền thống xăm mình và mặt bằng các hoa văn đơn giản.
Dân tộc Bru Vân Kiều
Dân số: 94.598 người
Ngôn ngữ: ngôn ngữ chi Cơ Tu của ngữ tộc Môn – Khmer.
Nơi ở: phần lớn ở khu vực miền núi các tỉnh Quảng Trị, Thừa Thiên Huế, một số sang Thái Lan.
Bru Vân Kiều là một trong số các dân tộc thiểu số của Việt Nam. Họ thường xây dựng nhà sàn nhỏ dọc theo con suối hay quây quần thành vòng tròn.
Dân tộc Thổ
Dân số: 91.430 người
Nơi ở: vùng phía tây Nghệ An.
Ngôn ngữ: hệ ngôn ngữ chi Việt trong hệ Nam Á. Tùy theo từng nhóm khác nhau mà phần ngôn ngữ, ngữ âm sẽ khác biệt.
Người Thổ kiếm sống bằng nghề làm rẫy trồng nương và trồng cây lá gai. Trước kia họ có dệt vải nhưng sau do ít giao lưu với các dân tộc khác nên mai một dần đi.
Dân tộc Khơ Mú
Dân số: 90.612 người
Nơi ở: Nghệ An, Sơn La, Lai Châu, Thanh Hóa, Yên Bái,..
Người Khơ Mú canh tác nương rẫy trồng lúa, ngô, sắn, khoai,.. là chính. Họ cũng có chăn nuôi nhưng chỉ để cho những dịp lễ hay tiếp khách.
Người Khơ Mú thường sử dụng họ liên quan đến các loài thú rừng, chim hay cây cối nào đó. Mỗi dòng họ lại có truyền thuyết riêng về lai lịch tổ tiên rất đặc sắc
Tuy đời sống vật chất của người dân tộc Khơ Mú khá nghèo nàn nhưng về đời sống tinh thần của họ lại rất phong phú.
Dân tộc Cơ Tu
Dân số: 74.173 người
Người Cơ Tu kiếm sống bằng việc trồng trọt và hái lượm . Ngoài ra họ còn có dệt, đan lát, đánh bắt cá, săn bắn, trao đổi hàng hóa theo dạng vật đổi vật.
Cùng với sự phát triển của du lịch thì các tục xăm, cưa răng hay đàn ông phải búi tóc sau gáy đã dần được loại bỏ. Một số ngành nghề buôn bán các sản phẩm địa phương và biểu diễn múa cồng chiêng trở nên nổi bật và dần phát triển.
Dân tộc Giáy
Dân số dân tộc Giáy: 67.858 người
Nơi ở: vùng Tây Bắc
Người Giáy thường sống ở nhà sàn, tận dụng địa hình vùng cao canh tác ruộng bậc thang.
Phong tục tập quán và trang phục của nhóm dân tộc Tày – Thái cũng đa dạng. Mỗi dân tộc có một phong tục thờ cúng các vị Thần khác nhau.
Dân tộc Giẻ Triêng
Dân số: 63.332 người
Nơi ở: Kon Tum.
Do địa hình khu vực sinh sống hiểm trở nên những vật dụng vận chuyển thông dụng là cõng, gùi, vách, xách, kéo,… Họ sinh sống chủ yếu bằng việc canh tác trên nương rẫy. Ngoài ra người dân cũng săn bắt, làm đồ thủ công, rèn,.. khá nhiều.
Trang phục truyền thống của họ cũng rất đa dạng. Nam giới thường sẽ đóng khố và mặc một chiếc áo choàng bên ngoài. Còn nữ giới thường mặc váy bông đen với nhiều hoạt tiết hoa văn màu đỏ và trắng có dạng hình ống.
Dân tộc Tà ÔI
Dân số: 52.356 người
Nơi ở: dải Trường Sơn
Trước kia dân tộc Tà Ôi sống chủ yếu nhờ săn bắt và hái lượm với nhiều hủ tục, văn hóa lạc hậu. Tuy nhiên nghe lời kêu gọi của Đảng và Nhà Nước nên họ đã rời rừng hòa nhập cộng đồng và bắt đầu cải cách kinh tế, xóa đói giảm nghèo
Tùy nơi khác nhau mà người Tà Ôi có dòng họ riêng cũng như các điều kiêng kỵ nhất định. Cho đến nay họ vẫn sống theo chế độ phụ hệ.
Dân tộc Mạ
Dân số: 50.322 người
Nơi ở: Lâm Đồng, Đồng Nai.
Nghề chính của người Mạ là canh tác nương rẫy, trồng lúa, bầu, bí, bông, thuốc lá,.. Họ chăn nuôi gia súc và gia cầm thành đàn trong rừng. Nghề dệt lụa và rèn sắt của người dân tộc Mạ khá là nổi tiếng.
Dù tuân theo chế độ phụ hệ nhưng khi cưới thì chú rể người Mạ sẽ phải sang ở rể cho đến khi nộp đủ phần sính lễ thì mới được đưa cô dâu về nhà mình.
Dân tộc Co
Dân số: 40.442 người
Người dân tộc Co kiếm sống chủ yếu nhờ nương rẫy với trồng trọt lúa, ngô, sắn và đặc biệt là quế cho năng suất cao và thu nhập ổn định
Các bô lão trong cộng đồng người Co có tiếng nói cao và được kính trọng. Trưởng làng phải người có nhiều kinh nghiệm, hiểu biết rộng và được dân làng rất tin yêu và kính trọng.
Dân tộc Chơ Ro
Dân số: 29.520 người
Nơi ở: Đồng Nai, Bình Phước, Bà Rịa – Vũng Tàu, Bình Thuận,..
Nguồn thu nhập của người Chơ Ro chủ yếu từ canh tác, chăn nuôi, săn bắt, đan lát,..
Tín ngưỡng của họ khá đa dạng, vị thần tối cao là thần Yang N’du – thần sáng tạo, tiếp theo là thầnthần lúa Yang Koi, thần nước Tang Dah và Yang Bri – thần rừng,..
Người Chơ Ro họ tôn trọng nhau và không theo bất kì chế độ nào.
Dân tộc Xinh Mun
Dân số: 29.503 người
Nơi ở: Lai Châu, Sơn La.
Trồng trọt và săn bắt hái lượm là hoạt động mưu sinh quan trọng trong đời sống của người dân Xinh Mun.
Trước kia người Xinh Mun chủ yếu du canh du cư, về sau họ đã lập làng ổn định. Họ còn giữ vững nhiều phong tục tập quán như là ăn những loại gia vị cay nồng, nhuộm rănguống rượu cần và ăn trầu.
Dân tộc Hà Nhì
Dân số: 25.539 người
Nơi ở Lào Cai, Lai Châu.
Ngôn ngữ: Hà Nhì
Người Hà Nhì sống chủ yếu bằng nghề nông. Họ có nhận thức và trình độ học vấn tốt hơn so với những dân tộc khác.
Người Hà Nhì có nhiều họ khác nhau, và đặt tên đệm theo tên con vật ứng với ngày sinh, còn tên theo tên của người cha.
Dân tộc Chu Ru
Dân số: 23.242 người
Nơi ở: Ninh Thuận, Lâm Đồng.
Người Chu Ru sống làng và đứng đầu là một người đàn ông cao tuổi để thực hiện các nghi lễ. Cộng đồng của người dân tộc Chu Ru cũng được phân chia thành nhiều nhóm khác nhau, hầu hết phân chia rõ thành tầng lớp giàu nghèo. Cách phân biệt sẽ dựa trên đồ vật mà họ mang trên người. Sở dĩ có sự phân chia này dựa trên việc người dân lao động nhiều ít chứ không có yếu tố bóc lột.
Người Chu Ru thường quây quần thành các đại gia đình lớn gồm 3 – 4 thế hệ. Mọi thành viên trong gia đình làm việc và cùng chung thành phẩm. Ngày nay vẫn còn nhiều tàn dư của chế độ mẫu hệ trong đời sống của người Chu Ru.
Dân tộc Lào
Dân số: 17.532 người
Nơi ở: Lào Cai, Điện Biên, Sơn La.
Ngoài kiếm sống bằng canh tác, làm thủy lợi họ còn làm gốm, dệt, đồ bạc, rèn,..
Nam giới mặc áo bông nhuộm chàm giống như áo của người đàn ông dân tộc Thái. Còn nữ giới mặc váy đen có gấu thêu hoa văn sặc sỡ, phần áo trên sẽ bó thân và có hàng khuy bạc
Dân tộc Kháng
Dân số: 16.180 người
Người Kháng kiếm sống bằng nghề nông, chăn nuôi, đan lát và làm thuyền độc mộc. Nhà sàn là một trong số những nét đẹp văn hóa của họ.
Dân tộc La Chí
Dân số: 15.126 người
Nơi ở: Lào Cai, Hà Giang.
Họ sinh sống ở các khu vực trên với nghề làm ruộng bậc thang và trồng bông, chàm. Họ thường sống quây quần trong những ngôi nhà sàn với lối kiến trúc vô cùng độc đáo. Thường có nhiều thế hệ hay các cặp vợ chồng cùng sinh sống chung trong một gia đình.
Dân tộc Phù Lá
Dân số: 12.471 người
Nơi ở: phần lớn ở Lào Cai, ngoài ra số ít sống tại Hà Giang, Yên Bái.
Người Phù Lá đã phát triển thủ công thành ngành nghề nổi bật với các sản phẩm đan mây, tre. Chúng được dùng để đổi lấy nhiều món hàng hóa khác.
Đời sống về mặt vật chất của người dân Phù Lá tuy còn nhiều thiếu thốn nhưng đời sống tinh thần của họ là cực kỳ phong phú.
Dân tộc La Hủ
Dân số: 12.113 người
Nơi ở: phần lớn ở Lai Châu, Thái Nguyên.
Ngôn ngữ : nhóm ngôn ngữ Tạng – Miến của hệ Hán – Tạng.
Trước kia thì người La Hủ chủ yếu sống nhờ làm rẫy, hái lượm và săn bắt. Tuy nhiên trong những năm gần đây thì họ đã biết canh tác lúa nước và sử dụng trâu cày.
Dân tộc La Ha
Dân số: 10.157 người
Nơi ở: Sơn La
Họ sống chủ yếu bằng việc làm rẫy, hái lượm. Ngày nay, người La Ha đã biết cải thiện đời sống bằng việc trồng lúa nước và chăn nuôi.
Dân tộc Pà Thẻn
Dân số: 8.248 người
Người Pà Thẻn chủ yếu canh tác lúa nước, làm nương rẫy và trồng chè Shan tuyết. Những người Pà Thẻn cũng chia làm nhiều họ khác nhau và quy định cùng họ không được lấy nhau.
Dân tộc Chứt
Dân số: 7.513 người
Nơi ở: Quảng Bình, Đak Lak, Hà Tĩnh, Lâm Đồng.
Ngôn ngữ: cùng hệ với tiếng Việt nguyên thủy.
Trước kia họ khá nhút nhát và chủ yếu sống theo lối du canh du cư, ngủ trong các hang động hoặc lều tự tạo. Hiện nay thì người Chứt đã định canh định cư biết trồng trọt cũng như chăn nuôi, đan lát.
Người Chứt tín ngưỡng Thần Nông. Khi diễn ra các hoạt động nông nghiệp quan trọng như xuống giống, gieo hạt,.. họ đều tổ chức lễ cúng bái.
Dân tộc Lự
Dân số: 6.757 người
Truyền thống làm ruộng của người Lự đã có từ rất lâu đời. Họ cày bừa, dẫn nước vào mương, gieo mạ, cấy lúa và trồng ngô, khoai, sắn, chàm, bông. Khi đi đến mỗi gia đình ta đều thấy có vài ba khung cửi ở đó.
Người Lự tín ngưỡng Phật giáo Nam tông. Lễ hội Songkran tôn thờ các vị Phật là lễ hội lớn nhất diễn ra vào tháng 6 dương lịch hàng năm
Dân tộc Lô Lô
Dân số: 4.827 người
Nơi ở: Cao Bằng và Hà Giang.
Những nét văn hóa lâu đời, giá trị truyền thống luôn được người Lô Lô gìn giữ theo năm tháng. Người Lô Lô thường cư trú trong những ngôi nhà lưng dựa vào vách núi hướng về phía thung lũng và cánh đồng.
Dân tộc Mảng
Dân số: 4.650 người
Nơi ở: Nậm Nhùn, Lai Châu.
Người dân tộc Mảng tín ngưỡng vị thần tối cao là trời và rất tin tưởng vào các yếu tố tâm linh.
Dân tộc Cờ Lao
Dân số: 4.003 người
Ngôn ngữ: tiếng Quan Thoại, đôi khi cũng sẽ nói tiếng Bố Y hay H’Mông.
Do nơi sống là những vách đá cao nên họ chủ yếu là làm thổ canh là chính với cây ngô là lương thực chính. Với những vùng núi đất thì sẽ canh tác ruộng bậc thang, đan lát, làm đồ gỗ.
Người Cờ Lao thì họ tin rằng mỗi người, mỗi cây mỗi cỏ, mỗi vật đều có linh hồn .Thần Đất là vị thần quan trọng được hầu hết toàn bản thờ cúng.
Dân tộc Bố Y
Dân số: 3.232 người
Nơi ở: Lào Cai, Hà Giang, Yên Bái và Tuyên Quang.
Ngôn ngữ: chi Thái trong hệ ngôn ngữ Tai-Kadai.
Người Bố Y biết làm nương rẫy, chăn nuôi và có nhiều kinh nghiệm nuôi cá.
Vì khu vực sống là núi cao có lượng mưa và độ ẩm lớn nên nhà ở bắt buộc phải làm từ là tre, gỗ. Các nhà ở của họ thường sẽ nằm quây quần quanh sườn đồi hay bờ suối, thung lũng có nền cao.
Dân tộc Cống
Dân số: 2.729 người
Nơi ở: Điện Biên và Lai Châu.
Họ làm nương rẫy, hầu hết thức ăn đều từ rừng và bắt cá bằng tay. Tuy người Cống không biết dệt vài nhưng họ sẽ trồng bông đem đổi lấy vải hay quần áo. Những người phụ nữ dân tộc Cống cũng đan lát rất giỏi.
Dân tộc Ngái
Dân số: 1.649 người
Nơi ở: Thái Nguyên, Tuyên Quang, Bắc Giang, Lạng Sơn, Cao Bằng, Đồng Nai, Bình Thuận,..
Ngôn ngữ: hệ Hán – Tạng.
Phụ thuộc vào nơi sống mà người dân tộc Ngái sẽ có thể trồng lúa, đánh bắt cá, làm đồ thủ công,..
Dân tộc Si La
Dân số: 909 người
Nơi ở: Lai Châu.
Ngôn ngữ: Tạng-Miến.
Người Si La kiếm sống bằng bằng nghề trồng lúa và ngô. Tuy họ có nhiều dòng họ như lại quan hệ rất khắng khít với nhau.
Dân tộc Pu Péo
Dân số: 903 người
Nơi ở: Cao nguyên Đồng Văn, Hà Giang
Họ kiếm sống tại các khu vực trên với nghề trồng ngô, mạch ba góc, đậu,.. Lương thực chính của họ là bột ngô đồ chín.
Tương tự như những dân tộc tại miền núi phía Bắc nước ta, người Pu Péo cũng tín ngưỡng thờ đa Thần. Nhiều thần linh được thờ cúng như thần rừng, thần núi, thần suối, thần sông,..
Dân tộc Rơ Măm
Dân số: 639 người
Nơi ở: Kon Tum.
Nghề chính của họ là trồng lúa nếp và làm rẫy. Tầm 10 – 20 người thuộc nhiều thế hệ khác nhau sẽ cùng sinh sống trong một nhà.
Dân tộc Brâu
Dân số: 525 người
Ngôn ngữ: hệ tộc Môn – Khmer.
Người Brâu quen lối du canh du cư, đốt rừng làm rẫy để trồng trọt. Tuy nhiên do kỹ thuật còn kém, công cụ sản xuất còn thô sơ nên năng suất chưa cao.
Lễ cúng nhà được người Brâu coi là một dịp lễ quan trọng trong phong tục tập quán, vào dịp lễ này chủ nhà mở tiệc và mời cả làng đến chung vui.
Dân tộc Ơ Đu
Dân số: 428 người
Nơi ở: Tương Dương, Nghệ An.
Ngôn ngữ: chi Khơ Mí của ngữ tộc Môn – Khmer.
Họ kiếm sống chính bằng nghề canh tác nương rẫy, săn bắt và hái lượm. Việc chăn nuôi gia súc gia cầm chủ yếu dùng cho việc cúng bái thần linh và đãi khách.
Dân tộc Ơ Đu là dân tộc có số lượng người ít nhất. Người Ơ Đu có nền văn hóa chịu ảnh hưởng khá lớn từ dân tộc Thái hoặc Khơ Mú.
Thankme đã tổng hợp tất cả các thông tin về tên và hình ảnh 54 dân tộc Việt Nam qua bài viết trên. Tuy đồng bào dân tộc anh em chúng ta còn có những khác biệt về ngôn ngữ, đời sống hàng ngày, văn hóa,.. Nhưng đều là anh em một nhà, là con Rồng cháu Tiên cùng chung sống trên lãnh thổ Việt Nam. Hi vọng qua bài viết này 54 dân tộc Việt Nam sẽ đoàn kết hơn nữa, chung tay góp phần xây dựng, bảo vệ và phát triển đất nước!